Môn nước hay còn gọi là
môn ngứa, là một loài
môn hoang dại. Song, qua
bàn tay tài hoa và sự
sáng tạo của những người
chinh phục vùng đất
phương Nam đã biến thành
những món ăn rất hấp
dẫn. Sự kết hợp hài hòa
mùi vị trong chế biến
làm cho môn nướctrở
thành món ngon mà bất cứ
ai một lần được nếm thử
đều khó phai trong ký ức
mình về một loài cây chỉ
có nơi miền thôn dã...
Bất cứ nơi nào có
nước ngọt ở vùng
châu thổ Cửu Long
đều có loài môn ngứa
sinh sống. Chúng mọc
hoang ở mương vườn,
đầm lầy, ven sông
rạch. Đúng như tên
gọi của nó, toàn
thân cây môn đều có
một thứ nhựa rất
ngứa khi đụng phải.
Tuy nhiên, người xưa
đã tìm ra những bí
quyết riêng để khắc
chế chất gây ngứa
của loài cây này để
chế biến ra một số
món ăn như dưa môn,
cháo môn…. rất độc
đáo!
Ở quê, nồi cháo môn
ngứa duy nhất chỉ
kết hợp được với
loài lươn đồng.
Thiên nhiên dường
như đã ưu ái cho
người dân nơi thôn
dã những thứ có sẵn
từ đồng đất quê nhà.
Kinh nghiệm dân
gian, những chỗ cỏ
năn, cỏ bắc, môn
nước mọc dầy là nơi
trú ngụ của loài
lươn đồng. Chịu khó
mang vài ống trúm
đem đặt từ chiều hôm
trước thì đến sáng
hôm sau cũng kiếm
được vài chú lươn
đồng mập ú.
Trong lúc thăm trúm,
tiện tay ngắt vài
nắm ngó môn mọc ven
bờ là có ngay món
cháo lươn nấu môn.
Nói thì thấy dễ thế
thôi, chứ thật ra
món ăn này xem ra
các công đoạn chuẩn
bị khá kỳ công.
Người ta chọn lựa
những ngó môn nước
cũng khá cực nhọc.
Ngó môn là phần từ
thân cây mẹ mọc ra
một đoạn dài khoảng
5-7 tấc đến một
thước, lớn bằng ngón
tay. Cuối ngó môn sẽ
là một bụi môn con
sau này. Mỗi một bụi
môn trưởng thành
thường có từ 1 – 2
ngó như vậy. Trong
ngó môn chủ yếu là
chất xơ, nhớt và có
một ít tinh bột.
Ngó môn đem về được
ngâm vào nước, rửa
sơ rồi cắt ra thành
khúc chừng hơn 1
tấc. Trong từng công
đoạn chế biến, ngó
môn luôn được ngâm
trong nước để tránh
ngứa tay và khi nấu
ngó môn ăn không bị
ngứa. Người ta luộc
ngó môn vừa chín tới
và cho nước lạnh vào
để lột vỏ. Tất cả
đoạn ngó môn đều
dùng được từ gốc đến
ngọn. Nồi cháo lươn
ngó môn người dân
quê hay nấu với nước
cốt dừa. Vì thế mà
khâu chuẩn bị thật
vui, mỗi người mỗi
việc. Phụ nữ thì làm
lươn, lột vỏ ngó môn
còn đàn ông mạnh
tay, mạnh chân thì
đảm nhận phần việc
nạo dừa.
Khi nồi cháo sôi,
gạo vừa nở người ta
cho tất cả ngó môn
vào để nấu chung.
Còn lươn thì mau
chín nên để vào sau
cùng. Bí quyết để
không còn chất gây
ngứa của môn nước là
trong suốt quá trình
nấu cháo đừng bao
giờ tắt lửa. Nêm nếm
xong, cho hành lá
xắc nhuyễn vào nồi
cháo là coi như sắp
hoàn tất. Những
người thích ăn béo
thì cho nước cốt đầu
vào sau cùng khi nồi
cháo được dọn lên
mâm.
Không biết giữa lươn
và môn ngứa có chất
gì hoá giải mà khi
nấu cháo chung với
nhau thì tuyệt vời,
chẳng những ăn không
ngứa mà còn ngon bổ,
mấy món đặc sản thời
hiện đại cũng không
sánh kịp. Theo những
người lớn tuổi thì
món cháo môn không
những rất ngon mà
còn có tác dụng giải
các chất độc tích tụ
trong cơ thể con
người. Có lẽ câu nói
dân gian “Lấy độc
trị độc” rất đúng
trong trường hợp
này!
Trong ký ức tuổi thơ
của nhiều người ở
thôn quê chắc hẵn
không quên món dưa
môn dân dã của bà,
của mẹ. Ngày trước,
đời sống còn khó
khăn lại xa chợ chứ
không như bây giờ.
Người quê tự làm các
món dưa dự trữ để ăn
dài ngày hoặc làm
nhiều vào mùa cấy,
phát.
Nguyên liệu làm dưa
thì nhiều loại,
nhưng người ta dám
nghĩ đến dùng cây
môn ngứa để làm dưa
thì quả thật là một
ý tưởng táo bạo.
Nhiều nhà nghiên cứu
ẩm thực Nam bộ
thường nói: Ông cha
mình chắc ngày trước
phải bỏ nhiều công
sức mới khám phá ra
món ăn độc đáo có
một không hai ngay
thời khai hoang mở
đất trình độ còn kém
cỏi. Đó là cả một
thời gian dài mới
rút được kinh nghiệm
quý về ẩm thực, góp
phần cho bữa ăn hàng
ngày càng thêm phong
phú và đa dạng.
Những người có kinh
nghiệm làm dưa môn
chọn lựa rất kỹ ngay
từ khi đi cắt bẹ lá.
Những bụi môn dầm
mình trong nước là
tiêu chuẩn đầu tiên
để chọn lựa. Một bụi
môn chỉ lấy được 1
đến 2 bẹ non mà
thôi. Sau khi rửa
sạch từng bẹ môn
người ta mới cắt
khúc rồi cho vào cần
xé và dùng bập dừa
nước để dọt. Trong
lúc dọt người ta cho
muối hột vào vừa như
là nêm gia vị vừa để
tẩy chất ngứa lừ
cọng môn. Khi thấy
môn nềm và chất nước
trong môn chảy ra
gần hết người ta cho
qua khạp da bò để ủ.
Phần gia vị gồm tỏi,
ớt, đường mía được
ướp vào và đậy nắp
lại đem phơi nắng,
phơi sương chừng 4
ngày là dưa chua.
Mỗi ngày người ta
đảo đều để các lớp
dưa thấm gia vị đồng
đều.
Món dưa môn vừa dẻo
vừa dai lại giòn
giòn, chỉ cần vắt
ráo thêm chút tỏi ớt
là có ngay một món
chấm với cá kho rất
tuyệt vời. Cũng
giống như dưa cải,
dưa môn ăn sống rất
ngon, kho với cá đối
càng hợp mà nấu canh
chua với lươn, với
cá lóc cũng không
chê vào đâu được.
Cái mùi hăng hắc
quen thuộc của dưa
môn không lẫn với
mùi vị của bất cứ
món ăn nào. Đó là
một phần ngọt ngào
của quê hương gửi
vào máu thịt, vào
tâm hồn của biết bao
con người nơi xứ sở
này.
Thời gian cứ trôi
đi, cuộc sống dần
khấm khá hơn, chợ
búa nhiều hơn… phần
nào đã che khất dần
loài môn nước hoang
dại. Những món ăn
được chế biến từ
loài cây này cũng ít
người biết làm.
Nhưng, đâu đó thấp
thoáng trong miền ký
ức của những người
lớn tuổi thì cây môn
nước vẫn luôn ngọt
ngào nơi miền thôn
dã!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét